Người con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có được hưởng thừa kế của người cho tinh trùng, cho noãn hay không?

Trên lĩnh vực y tế, nhờ sự ra đời của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, vấn đề vô sinh của các cặp vợ chồng hiện nay đã được giải quyết. Việc sinh con theo phương pháp này ngày càng phổ biến. Tuy nhiên đã làm nảy sinh nhiều vấn đề pháp lý, đặc biệt về vấn đề xác định quan hệ nhân thân. Vậy, đối với trường hợp người con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có được hưởng thừa kế của người cho tinh trùng, cho noãn hay không?

Cùng Luật sư ADB Saigon tìm hiểu thêm về việc con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có được hưởng thừa kế của người cho tinh trùng, cho noãn hay không theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 qua bài viết dưới đây:

Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Dân sự 2015

– Luật Hôn nhân và gia đình 2014

Thế nào là con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản?

Theo khoản 21 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”. Có thể hiểu một cách đơn giản, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật y học hiện đại để tác động vào quá trình thụ thai để giúp người phụ nữ có thai.

Hiện nay có hai phương pháp chính được áp dụng: thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm:

– Thụ tinh nhân tạo là phương pháp được tiến hành bằng cách bơm tinh trùng của người chồng hoặc người cho tinh trùng vào buồng tử cung của người phụ nữ ở thời điểm rụng trứng để tạo phôi.

– Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi; theo phương pháp này, trứng và tinh trùng được thụ tinh bên ngoài cổ tử cung của người phụ nữ.

Xác định cha, mẹ trong trường hợp con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Theo quy định tại Điều 93 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như sau:

Thứ nhất, người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được thực hiện:

– Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.

– Nếu con sinh ta trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.

– Trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.

Thứ hai, người phụ nữ độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra.

Thứ ba, khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn với người con được sinh ra.

Thứ tư, con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được xác định là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ (kể từ thời điểm con được sinh ra).

Người con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có được hưởng thừa kế không-Hỗ trợ tư vấn pháp lý nhanh

Con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có được hưởng thừa kế của người cho tinh trùng, cho noãn hay không?

Theo quy định của pháp luật thừa kế, tại khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:

Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”

Theo quy định trên, có thể thấy pháp luật đã liệt kê cụ thể những người được thừa kế theo pháp luật và hàng thừa kế.

Với trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

Điều 93. Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

3. Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra.”

Như vậy, người con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sẽ không có quan hệ cha, mẹ, con với người cho tinh trùng, cho noãn. Nói cách khác, những đứa trẻ được sinh ra từ việc nhận tinh trùng, noãn không phải là con đẻ hay con nuôi của người cho.

Do đó, người con không được hưởng thừa kế theo pháp luật của người cho và ngược lại; trừ trường hợp người con được sinh ra bằng cách thụ tinh giữa tinh trùng của người chồng và noãn của người vợ, người con lúc này sẽ được xác định là con chung của vợ, chồng theo quy định tại Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Việc người con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không được nhận thừa kế theo pháp luật từ người cho là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc vô danh trong việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận noãn, bảo vệ đời tư cho cả người cho và người nhận.

Trên đây là bài viết tham khảo của Luật sư ADB SAIGON về việc con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có được hưởng thừa kế của người cho tinh trùng, cho noãn hay không theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Luật sư ADB SAIGON luôn sẵn sàng tư vấn pháp lý miễn phí (qua điện thoại 0907520537tư vấn trực tiếp, qua zalofanpage…) về tất cả các thắc mắc nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật sư Hình sựLuật sư Hôn nhân Gia đìnhLuật sư Dân sựLuật sư Doanh Nghiệp, Luật sư Kinh doanh Thương mại, Luật sư Đất đai

Để lại một bình luận