Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng?

Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng là gì? Rừng là tài nguyên vô cùng quý giá. Khi tiến hành giao đất, trồng rừng, thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất rừng thì phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. Do đó, nếu người có chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi vi phạm trong việc quản lý rừng sẽ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hành vi vi phạm quy định về quản lý rừng là gì?

Hành vi vi phạm các quy định về quản lý rừng được hiểu là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật; cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật; cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật.

Khi hành vi vi phạm này có mức độ và tính chất nguy hiểm thì người thực hiện hành vi có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội vi phạm quy định về quản lý rừng, được quy định tại Điều 233 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ pháp lý?

Theo Điều 233 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

Điều 233. Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng

1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 20.000 mét vuông (m2) đến dưới 25.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 15.000 mét vuông (m2) đến dưới 20.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 15.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 229 của Bộ luật này;

b) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 12.500 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 7.500 mét vuông (m2) đến dưới 10.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 7.500 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 229 của Bộ luật này;

c) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 của Bộ luật này;

d) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 25.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 20.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 15.000 mét vuông (m2) đến dưới 25.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;

d) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 12.500 mét vuông (m2) đến dưới 17.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 10.000 mét vuông (m2) đến 15.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 7.500 mét vuông (m2) đến 12.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;

đ) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 232 của Bộ luật này.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 40.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; từ 30.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc từ 25.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng;

b) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 17.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; từ 15.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc từ 12.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng - Tư vấn, hỗ trợ pháp lý nhanh

Cấu thành tội phạm của tội vi phạm quy định về quản lý rừng?

Để bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội vi phạm quy định về quản lý rừng được quy định tại Điều 233 Bộ luật Hình sự hiện hành thì người thực hiện hành vi vi phạm phải đáp ứng đầy đủ 04 dấu hiệu pháp lý dưới đây:

Khách thể của tội phạm

Khách thể của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng chính là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý rừng, đất trồng rừng; thu hồi rừng, đất trồng rừng; cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng; cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản.

Đối tượng tác động của tội phạm này là tài nguyên rừng. Tài nguyên rừng ở đây sẽ bao gồm: rừng tự nhiên và rừng trồng trên đất lâm nghiệp gồm có thực vật rừng, động vật rừng và những yếu tó tự nhiên có liên quan đến rừng.

Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng là chủ thể đặc biệt. Họ phải là những người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý rừng mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Trong đó:

– Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.

– Người có quyền hạn có thể là người có hoặc không có chức vụ, nhưng được giao cho quyền hạn nhất định về lĩnh vực đó.

Người có chức vụ, quyền hạn được nêu ở đây phải là người có trách nhiệm trong việc quản lý rừng, nhất là có thẩm quyền trong việc giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng, … Nếu người thực hiện hành vi vi phạm không có trách nhiệm trong việc quản lý rừng thì cũng không thể xác định người đó là chủ thể của tội phạm này.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm này cũng phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội vi phạm quy định về quản lý rừng thực hiện hành vi của mình là do cố ý. Tức là, họ có thể nhận thức rõ ràng về hành vi của mình là vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý rừng gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng họ vẫn mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.

Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.

Mặt khách quan của tội phạm

Thứ nhất, hành vi khách quan của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng gồm hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện một trong những hành vi sau:

– Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật từ 20.000 m2 đến dưới 25.000 m2 đối với rừng sản xuất; từ 15.000 m2 đến dưới 20.000 m2 đối với rừng phòng hộ hoặc từ 10.000 m2 đến dưới 15.000 m2 đối với rừng đặc dụng;

– Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật từ 10.000 m2 đến dưới 12.500 m2 đối với rừng sản xuất; từ 7.500 m2 đến dưới 10.000 m2 đối với rừng phòng hộ hoặc từ 5.000 m2 đến dưới 7.500 m2 đối với rừng đặc dụng;

– Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 của Bộ luật Hình sự hiện hành;

– Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng, cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật hoặc cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật dưới mức quy định tại điểm a, điểm b khoản này và các điểm từ điểm a đến điểm l khoản 1Điều 232 của Bộ luật Hình sự hiện hành nhưng đã bị xử lý kỷ luật về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm.

Thứ hai, hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được hiểu như sau:

– Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được hiểu là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để giao rừng, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật.

– Đối với hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chính là trường hợp người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã vượt quá quyền hạn được giao để giao rừng, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật.

Thứ ba, người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn có thể thực hiện một trong các hành vi như: giao rừng trái pháp luật; thu hồi rừng trái pháp luật; cho thuê rừng trái pháp luật; cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật hoặc cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 của Bộ luật này.

Thứ tư, phát sinh ra hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội chưa gây ra hậu quả tối thiểu theo quy định tại Khoản 1 Điều 233 Bộ luật Hình sự thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng phải chịu xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định 35/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 04 năm 2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp.

Xem thêm…

Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất?

Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ?

Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản?

Phaplynhanh.vn  đang hỗ trợ cho người dân, doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp cả nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật sư Hình sựLuật sư Hôn nhân Gia đìnhLuật sư Dân sựLuật sư Doanh NghiệpLuật sư Đất đaitư vấn ly hôn nhanhtư vấn luật thừa kế,… liên hệ với chúng tôi qua thông tin tại Website, Hotline: 0907520537 hoặc Fanpage: Pháp lý nhanh.VN

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *