Đặc điểm của tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự? Người chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam không phải chỉ đơn thuần vì người này có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà còn vì đã có lỗi trong thực hiện hành vi khách quan đó.
Mục lục bài viết
Dấu hiệu tội phạm là gì?
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, dấu hiệu tội phạm là dấu hiệu dùng để xem xét một hành vi có được coi là tội phạm hay không. Tuy nhiên không phải bất kỳ hành vi nào có dấu hiệu của tội phạm cũng bị xem là tội phạm.
Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.

Đặc điểm của tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự?
Theo Điều 8 BLHS, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu “… được quy định trong BLHS…”. Như vậy, tính được quy định trong luật hình sự là dấu hiệu đòi hỏi phải có ở hành vi bị coi là tội phạm. Việc xác định tội phạm phải được luật hình sự quy định là sự thừa nhận nguyên tắc đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc:
“Không ai bị kết án vì một hành vi mà lúc họ thực hiện luật pháp quốc gia hay quốc tế không coi là tội phạm” (khoản 2 Điều 11).
Trong sự thống nhất với việc xoá bỏ nguyên tắc tương tự và cấm hồi tố, việc khẳng định dấu hiệu này của tội phạm là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế.
Trong BLHS, dấu hiệu “được quy định trong luật hình sự” không chỉ được thể hiện ở Điều 8 mà còn được thể hiện ở Điều 2 và Điều 7. Khoản 1 Điều 2 BLHS quy định: “Chi người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự… Khoản 2 Điều 7 quy định:
“Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vỉ áp dụng án treo, miễn TNHS, loại trừ TNHS, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đổi với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.
Việc xác định “được quy định trong luật hình sự” là dấu hiệu của tội phạm không những là cơ sở đảm bảo cho việc chổng tội phạm được thống nhất, tránh tuỳ tiện mà còn là động lực thúc đẩy cơ quan lập pháp phải kịp thời bổ sung, sửa đổi luật theo sát sự thay đổi của tình hình tội phạm.
Tính được quy định trong luật hình sự tuy chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lí, phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội của tội phạm nhưng vẫn có tính độc lập tương đối và có ý nghĩa quan trọng. Nếu chỉ coi trọng tính nguy hiểm cho xã hội sẽ dễ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện trong việc xác định tội phạm.
Ngược lại, nếu quá coi trọng tính được quy định trong luật hình sự sẽ dễ dẫn đến tình trạng xác định tội phạm một cách hình thức, máy móc. Nhằm tránh những trường hợp như vậy, khoản 2 Điều 8 BLHS quy định:
“Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kế thì không phải là tội phạm…”.
Luật hình sự Việt Nam coi tính được quy định trong luật hình sự là dấu hiệu của tội phạm nhưng không phải là dấu hiệu duy nhất mà chỉ là dấu hiệu biểu hiện mặt hình thức pháp lí của tính nguy hiểm cho xã hội – dấu hiệu cơ bản của tội phạm. Hai dấu hiệu – tính nguy hiểm cho xã hội và tính được quy định trong luật hình sự có quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.

Dấu hiệu được quy định trong luật hình sự tuy có tính độc lập tương đối nhưng vẫn là dấu hiệu được xác định bởi tính nguy hiểm cho xã hội. Chỉ trên cơ sở thừa nhận tính nguy hiểm cho xã hội, kết hợp tính nguy hiểm cho xã hội và tính được quy định trong luật hình sự mới có thể nhận thức được một cách đầy đủ dấu hiệu được quy định trong luật hình sự.
Hiện nay, theo quy định của BLHS, dấu hiệu “được quy định trong luật hình sự” phải được hiểu là “được quy định trong BLHS” mặc dù dấu hiệu “được quy định trong luật hình sự” có nghĩa rộng hơn vì luật hình sự bao gồm BLHS và các luật khác có quy phạm pháp luật hình sự.
>>> Xem thêm
Các hình thức xử phạt vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm?
Trường hợp nào không cần giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm?
Phaplynhanh.vn đang hỗ trợ cho người dân, doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp cả nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật sư Hình sự, Luật sư Hôn nhân Gia đình, Luật sư Dân sự, Luật sư Doanh Nghiệp, Luật sư Đất đai… tư vấn ly hôn nhanh, tư vấn luật thừa kế,… liên hệ với chúng tôi qua thông tin tại Website Phaplynhanh.vn, Hotline: 0907520537 hoặc Fanpage: Pháp lý nhanh.

THÔNG TIN VỀ CHÚNG TÔI:
Trụ sở chính: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON25 Đồng Xoài, phường Tân Bình, TP Hồ Chí Minh.Chi nhánh Bình Dương: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON – CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG569 Đại lộ Bình Dương, phường Thủ Dầu Một, TP Hồ Chí Minh.Điện thoại: 0377.377.877 – 0907.520.537 (Zalo)– 0855.017.017 (Hôn nhân) - 0907 520 537 (Tố tụng)Website: adbsaigon.com; Email: info@adbsaigon.com