Đặc điểm của tội phạm là gì? Dấu hiệu tội phạm là dấu hiệu dùng để xem xét một hành vi có được coi là tội phạm hay không. Tuy nhiên không phải bất kỳ hành vi nào có dấu hiệu của tội phạm cũng bị xem là tội phạm.

Mục lục bài viết
Đặc điểm của tội phạm là gì?
Tội phạm, theo luật hình sự Việt Nam, phải là hành vi của con người. Những gì mới chỉ trong tư tưởng, chưa thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi thì không thể là tội phạm. Chỉ qua hành vi của mình, con người mới có thể gây ra thiệt hại, gây ra sự nguy hiểm cho xã hội và những gì trong ý nghĩ, trong tư tưởng của con người cũng chỉ có thể được xác định qua chính những biểu hiện bên ngoài mà trước hết là qua chính hành vi của họ.
Trong luật hình sự Việt Nam, sự xác nhận tội phạm chỉ có thể là hành vi được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản. Đó là “nguyên tắc hành vi”.
Trước khi có Bộ luật Hình sự đầu tiên, tuy chưa có định nghĩa hoàn chỉnh về khái niệm tội phạm trong luật nhưng cũng đã có nhiều định nghĩa tội phạm trong các sách báo pháp lí. Những định nghĩa này đều đã thể hiện được “nguyên tắc hành vi”.
Ví dụ: Trong cuốn Một sổ vấn đề pháp lí phổ thông Việt Nam (xuất bản năm 1963), tội phạm đã được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho những quan hệ XHCN, chống đối pháp luật, tội lỗi và phải chịu hình phạt (tr.194).
Từ khi có BLHS đầu tiên (BLHS năm 1985), nguyên tắc này đã được chính thức thể hiện trong luật.
Theo nguyên tắc hành vi, luật hình sự Việt Nam không những không đặt vấn đề trách nhiệm hình sự đối với tư tưởng của con người mà còn không đặt vấn đề TNHS đối với cả những biểu hiện của con người ra thế giới khách quan mà không phải là hành vi.
Theo luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm được phân biệt với những hành vi không phải là tội phạm qua các dấu hiệu: Nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong luật hình sự, do người có năng lực TNHS thực hiện và phải chịu hình phạt.

Tội phạm có các dấu hiệu pháp lý nào ?
Theo Luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm có 4 dấu hiệu là :
1) Nguy hiểm cho xã hội;
2) Có lỗi;
3) Được quy định trong luật hình sự.
4) Phải chịu hình phạt.
Trong bốn dấu hiệu trên, dấu hiệu thứ nhất và dấu hiệu thứ hai là dấu hiệu nội dung và cùng quy định dấu hiệu thứ ba là dấu hiệu về hình thức pháp lí. Ba dấu hiệu này quy định dấu hiệu thứ tư là dấu hiệu hậu quả pháp lí.
Ngoài quan điểm có tính phổ biến trên đây còn có quan điểm thứ hai cho rằng tội phạm chỉ có ba dấu hiệu và quan điểm thứ ba cho rằng tội phạm có năm dấu hiệu.
Theo quan điểm thứ hai và thứ ba thì tính chịu hình phạt chỉ là thuộc tính bên ngoài của tội phạm nên không được coi là một dấu hiệu của tội phạm. Quan điểm thứ ba cho rằng tội phạm còn có hai dấu hiệu khác, đó là người thực hiện phải có năng lực trách nhiệm hình sự và phải đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Xem thêm: Tội phạm).
>>> Xem thêm
Nguyên tắc xử phạt vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm?
Vi phạm hành chính về vệ sinh an toàn thực phẩm?
Các hình thức xử phạt vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm?
Trường hợp nào không cần giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm?
Phaplynhanh.vn đang hỗ trợ cho người dân, doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp cả nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật sư Hình sự, Luật sư Hôn nhân Gia đình, Luật sư Dân sự, Luật sư Doanh Nghiệp, Luật sư Đất đai… tư vấn ly hôn nhanh, tư vấn luật thừa kế,… liên hệ với chúng tôi qua thông tin tại Website Phaplynhanh.vn, Hotline: 0907520537 hoặc Fanpage: Pháp lý nhanh.

THÔNG TIN VỀ CHÚNG TÔI:
Trụ sở chính: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON25 Đồng Xoài, phường Tân Bình, TP Hồ Chí Minh.Chi nhánh Bình Dương: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON – CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG569 Đại lộ Bình Dương, phường Thủ Dầu Một, TP Hồ Chí Minh.Điện thoại: 0377.377.877 – 0907.520.537 (Zalo)– 0855.017.017 (Hôn nhân) - 0907 520 537 (Tố tụng)Website: adbsaigon.com; Email: info@adbsaigon.com