Đặc điểm chịu hình phạt của tội phạm? Tính phải chịu hình phạt cũng là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, không có tội phạm cũng không có hình phạt.
Mục lục bài viết
Các dấu hiệu của tội phạm
Theo quy định pháp luật, có 4 dấu hiệu của tội phạm bao gồm: tính nguy hiểm cho xã hội; tính trái pháp luật hình sự; tính có lỗi; tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm.
Cùng pháp lý nhanh tìm hiểu tính chịu hình phạt của tội phạm ngay bên dưới.

Đặc điểm chịu hình phạt của tội phạm?
Tính chịu hình phạt là dấu hiệu của tội phạm nhưng không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm như các dấu hiệu trên. Do vậy, Điều 8 BLHS năm 1999 không đề cập dấu hiệu này trong định nghĩa tội phạm. Hành vi bị coi là tội phạm vì về nội dung, có tính nguy hiểm cho xã hội và về hình thức, được quy định trong luật hình sự chứ không phải vì có tính chịu hình phạt. Ngược lại, hành vi sở dĩ có tính chịu hình phạt vì là tội phạm – vì nguy hiểm cho xã hội và được quy định trong luật hình sự.
Như vậy, tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của tính nguy hiểm cho xã hội và tính được quy định trong luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội vừa là cơ sở của việc phân hoá tính chịu hình phạt trong luật vừa là cơ sở để cá thể hoá hình phạt trong áp dụng luật hình sự. Tính chịu hình phạt được coi là dấu hiệu của tội phạm vì nó được xác định bởi chính những thuộc tính khách quan bên trong của tội phạm.
Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu biện pháp trách nhiệm là hình phạt; không có tội phạm thì cũng không có hình phạt. Đây là lí do để coi “phải chịu hình phạt” là một đặc điểm của tội phạm. Bộ luật hình sự năm 2015 bổ sung đặc điểm “phải bị xử lí hình sự” trong định nghĩa khái niệm tội phạm tại Điều 8 mà không sử dụng đặc điểm “phải chịu hình phạt” vì cho rằng biện pháp xử lí hình sự không chỉ là hình phạt mà còn gồm cả các biện pháp hình sự phi hình phạt.
Tuy nhiên, hình phạt vẫn là biện pháp xử lí hình sự cơ bản có tính đặc trưng. Xét về bản chất, đặc điểm “phải bị xử lí hình sự” và đặc điểm “phải chịu hình phạt” không có sự khác nhau. Đặc điểm “phải bị xử lí hình sự” phản ánh bao quát hơn còn đặc điểm “phải chịu hình phạt” phản ánh được nội dung chính có tính đặc trưng, cụ thể của biện pháp hình sự.
Nói tội phạm có tính chịu hình phạt có nghĩa là bất cứ hành vi phạm tội nào, do tính nguy hiểm cho xã hội cũng đều bị đe dọa phải chịu hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước có tính nghiêm khắc nhất trong hệ thống những biện pháp cưỡng chế nhà nước. Nhưng điều đó không có nghĩa là việc áp dụng và thi hành trong thực tế hình phạt cụ thể là có tính chất bắt buộc tuyệt đối cho mọi trường hợp phạm tội.
Trong thực tế vẫn có trường hợp người phạm tội không phải chịu hình phạt. Đó là những trường hợp có tội nhưng được miễn TNHS, được miễn hình phạt hoặc được miễn chấp hành hình phạt…
Vì có những trường hợp không phải chịu hình phạt như vậy nên có thể có ý kiến cho rằng không nên coi tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu của tội phạm. Quan niệm như vậy sẽ không thấy được mối liên hệ giữa tội phạm và hình phạt. Trong các hành vi của con người, chỉ có tội phạm là hành vi có thể bị áp dụng hình phạt.
Có thể có tội mà không phải chịu hình phạt nhưng không thể áp dụng hình phạt khi không có tội. Nếu không coi tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu của tội phạm thì sẽ không thấy được hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất luôn gắn liền với tội phạm.

Trong những trường hợp được miễn TNHS, được miễn hình phạt hoặc được miễn chấp hành hình phạt, người phạm tội tuy không phải chịu hình phạt nhưng không có nghĩa tội phạm mà họ thực hiện không có tính chịu hình phạt mà trái lại, khả năng đe dọa phải chịu hình phạt vẫn có. Người phạm tội không phải chịu hình phạt vì đã được miễn với những lí do khác nhau. Đó là những lí do đã được quy định trong các điều 29, 59, 62 và 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Như vậy, nói tội phạm có tính chịu hình phạt có nghĩa là bẩt cứ hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa có thể phải chịu biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là hình phạt.
Với việc thừa nhận TNHS của pháp nhân thương mại, tính chịu hình phạt không chỉ đối với chủ thể thực hiện tội phạm mà còn đối với cả pháp nhân thương mại khi pháp nhân thương mại có quan hệ nhất định với tội phạm và người phạm tội theo quy định của Điều 75 BLHS.
>>> Xem thêm
Các biện pháp xử lý vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm?
Đặc điểm của tội phạm gây nguy hiểm cho xã hội?
Phaplynhanh.vn đang hỗ trợ cho người dân, doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp cả nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật sư Hình sự, Luật sư Hôn nhân Gia đình, Luật sư Dân sự, Luật sư Doanh Nghiệp, Luật sư Đất đai… tư vấn ly hôn nhanh, tư vấn luật thừa kế,… liên hệ với chúng tôi qua thông tin tại Website Phaplynhanh.vn, Hotline: 0907520537 hoặc Fanpage: Pháp lý nhanh.

THÔNG TIN VỀ CHÚNG TÔI:
Trụ sở chính: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON25 Đồng Xoài, phường Tân Bình, TP Hồ Chí Minh.Chi nhánh Bình Dương: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON – CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG569 Đại lộ Bình Dương, phường Thủ Dầu Một, TP Hồ Chí Minh.Điện thoại: 0377.377.877 – 0907.520.537 (Zalo)– 0855.017.017 (Hôn nhân) - 0907 520 537 (Tố tụng)Website: adbsaigon.com; Email: info@adbsaigon.com