Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm?

Tranh tụng được coi là khâu đột phá trong hoạt động xét xử, chất lượng tranh tụng sẽ góp phần nâng cao chất lượng xét xử, chống oan sai và bảo vệ các quyền con người cơ bản của người bị buộc tội. Hãy cùng tìm hiểu về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

Căn cứ pháp lý?

Theo Điều 26 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định:

Điều 26. Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.

Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.

Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.”

Nguyên tắc thể hiện tính đột phá theo tinh thần của cải cách tư pháp?

Điều 26 trên có nội dung hoàn toàn mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, là sự bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, đặt cơ sở pháp lý quan trọng cho việc chuyển hướng tích cực của tố tụng hình sự nước ta, có tính đột phá theo tinh thần của cải cách tư pháp:

Thư nhất, bằng việc xác định, liệt kê các chủ thể quan hệ tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã xác định tính chất của quan hệ tố tụng là quan hệ giữa một bên là Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng và một bên khác là người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ, cùng với những người tham gia tố tụng khác. Tính chất “hai bên” đó là cơ sở đầu tiên của tranh tụng trong xét xử.

Thứ hai, Điều 26 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã xác định vị trí trung tâm, vai trò điều hành phiên tòa xét xử của Tòa án. Tranh tụng chỉ tồn tại và được thực hiện khi có sự thừa nhận và khẳng định vai trò xét xử vô tư, khách quan của Tòa án. Bộ luật xác định trách nhiệm của Tòa án tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh luận dân chủ, bình đẳng trước Tòa án;

Bảo đảm để kết luận của Tòa án liên quan đến chứng cứ xác định có tội hay vô tội, liên quan đến các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, căn cứ định tội và quyết định hình phạt, xác định mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo phải là kết quả của một quá trình kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Thứ ba, điều luật này cho thấy rằng, quá trình tranh tụng diễn ra trong suốt quá trình tố tụng, bắt đầu từ giai đoạn khởi tố, điều tra, đến giai đoạn truy tố, xét xử. Và vì vậy, chủ thể quan hệ tranh tụng bao gồm cả Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Thứ tư, tính chất tranh tụng trước hết thể hiện ở sự bình đẳng của các chủ thể nêu trên trong việc đưa ra chứng cứ, tự do trình bày và tranh luận tại phiên tòa, kiểm tra và đánh giá chứng cứ.

Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm - Tư vấn, hỗ trợ pháp lý nhanh

Nội dung tranh tụng của tố tụng hình sự?

Có thể thấy rằng, những quy định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã hàm chứa những yếu tố cần và đủ của nguyên tắc tranh tụng và nội dung tranh tụng của tố tụng hình sự nước ta.

Tranh tụng cần đến sự phân vai rõ ràng giữa các chủ thể và nhờ đó, các chủ thể hình thành bên buộc tội và bên bào chữa với lợi ích tố tụng độc lập và khác nhau, đối lập nhau. Tố tụng tranh tụng được coi là địa hạt hành động của cả hai phía: phía Nhà nước mà đại diện là các cơ quan có chức năng buộc tội; phía bị can, bị cáo cùng với người bào chữa hoặc do người bào chữa đại diện.

Từ đó, các bên sẽ nỗ lực hết mình để bảo vệ lợi ích, bảo vệ quan điểm, trình bày chứng cứ, chủ động chứng minh về các tình tiết của vụ án theo châm ngôn “chân lý chỉ tìm thấy trong tranh luận”. Tố tụng tranh tụng đòi hỏi tự do chứng minh và tự do đánh giá chứng cứ, bảo đảm tính mở của chứng cứ với yêu cầu không một chứng cứ nào có thể được coi là có giá trị chứng minh ưu tiên hay có giá trị pháp lý tiên quyết.

BLTTHS 2015 bổ sung nhiều nguyên tắc mới để bảo đảm sự phù hợp với Hiến pháp năm 2013?

Để bảo đảm sự phù hợp với Hiến pháp năm 2013, ngoài những nguyên tắc được nêu và phân tích trên đây, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 còn đặt ra những nguyên tắc mới khác hoặc bổ sung nhiều điểm quan trọng vào nội dung của một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự đã có trước đây.

“Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” là một nguyên tắc mới được quy định tại Điều 14 BLTTHS năm 2015 trên cơ sở quy định tại khoản 3 Điều 31 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền tố tụng không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm, tức là không thể truy cứu TNHS người này một lần nào nữa về cùng một tội phạm.

Với nhận thức về tính chất, đặc điểm và ảnh hưởng của giai đoạn điều tra trong toàn bộ quá trình tố tụng đối với việc bảo đảm hiệu quả của các giai đoạn tố tụng tiếp theo và đặc biệt là đối với việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã đặt ra một nguyên tắc mỗi “tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra” (Điều 19).

Nguyên tắc: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật?’ (Điều 23) đã từng được các Bộ luật tố tụng hình sự trước đây quy định và đã được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung một nội dung mới: “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” với hậu quả pháp lý của sự vi phạm điều cấm này là tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nguyên tắc này được Hiến pháp năm 2013 xác lập (khoản 2 Điều 103) như một bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện chức năng xét xử của Tòa án nhân dân – chủ thể duy nhất của quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thể hiện yêu cầu của nguyên tắc Hiến định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013), một nguyên tắc mới của tố tụng hình sự – nguyên tắc về “kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự’ đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Điều 33).

Theo đó, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Thể hiện sự kế thừa của pháp luật tố tụng hình sự nước ta, nhiều nguyên tắc đã được quy định trước đây vẫn tiếp tục được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 coi là những nguyên tắc cơ bản và không có sự thay đổi đáng kể về nội dung.

Đó là các nguyên tắc: trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 17), trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự (Điều 18), trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự (Điều 20), bảo đảm sự vô tư của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng (Điều 21), thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia (Điều 22),

Tòa án xét xử tập thể (Điều 24), chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm (Điều 27), bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án (Điều 28), tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự (Điều 29), giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Điều 30), bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự (Điều 31), bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự (Điều 32).

Xem thêm…

Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật?

Tòa án xét xử tập thể?

Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai?

Phaplynhanh.vn  đang hỗ trợ cho người dân, doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp cả nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật sư Hình sựLuật sư Hôn nhân Gia đìnhLuật sư Dân sựLuật sư Doanh NghiệpLuật sư Đất đaitư vấn ly hôn nhanhtư vấn luật thừa kế,… liên hệ với chúng tôi qua thông tin tại Website, Hotline: 0907520537 hoặc Fanpage: Pháp lý nhanh.VN

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *