So với Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 bổ sung nhiều quy định mới. Trong đó có quy định về thủ tục tiếp nhận thông báo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
Mục lục bài viết
Căn cứ pháp lý?
Theo Điều 375 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định:
1. Khi nhận được thông báo bằng văn bản thì Tòa án, Viện kiểm sát phải vào sổ nhận thông báo.
2. Khi người bị kết án, cơ quan, tổ chức, cá nhân trình bày trực tiếp về vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì Tòa án, Viện kiểm sát phải lập biên bản; nếu người thông báo cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì Tòa án, Viện kiểm sát phải lập biên bản thu giữ. Biên bản được lập theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.
3. Tòa án, Viện kiểm sát đã nhận thông báo, lập biên bản phải gửi ngay thông báo, biên bản kèm theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) cho người có thẩm quyền kháng nghị và thông báo bằng văn bản cho người bị kết án, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã kiến nghị, đề nghị biết.”
Giám đốc thẩm là gì?
Giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt, chỉ được tiến hành khi có kháng nghị giám đốc thẩm. Đó là đặc điểm khác biệt so với các thủ tục xét xử thông thường như sơ thẩm (đương nhiên được thực hiện khi có khởi kiện hợp pháp của đương sự), phúc thẩm (đương nhiên được thực hiện khi có kháng cáo hợp pháp của đương sự hoặc các kháng nghị của Viện kiểm sát).
Các Thẩm phán không tham gia trực tiếp giám đốc thẩm cũng có thể tham gia vào trình tự giám đốc công tác xét xử bằng việc phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho những người có quyền kháng nghị giám đốc thẩm.
Đối tượng của việc kháng nghị giám đốc thẩm chỉ là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Kháng nghị và giám đốc thẩm là cơ chế nhằm khắc phục sai lầm nghiêm trọng của Tòa án trong việc giải quyết vụ án mà bản án, quyết định đó đã có hiệu lực. Vì vậy, cấp giám đốc thẩm không phải là cấp xét xử thứ 3 sau sơ thẩm và phúc thẩm.
Đối tượng của giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự?
Việc xác định đúng đối tượng giám đốc thẩm sẽ đảm bảo cho hoạt động giám đốc thẩm được chính xác, hiệu quả và có giá trị. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không có điều luật cụ thể về đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm mà chỉ quy định chung về tính chất của giám đốc thẩm: “giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…”.
Theo quy định của Bộ luật TTHS và các văn bản hướng dẫn thì các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bao gồm:
– Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị;
– Toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị nhưng người kháng cáo và Viện kiểm sát kháng nghị rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị và Toà án cấp phúc thẩm (Thẩm phán trước khi mở phiên tòa, Hội đồng xét xử tại phiên tòa) ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm;
– Trong trường hợp người kháng cáo rút một phần trong kháng cáo của mình hoặc có nhiều người kháng cáo, nhưng có người rút kháng cáo, có người không rút kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị trong kháng nghị của mình, nếu Toà án cấp phúc thẩm không xem xét các phần có kháng cáo, kháng nghị đã bị rút; thì những phần của bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị;
– Bản án phúc thẩm, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, ra quyết định;
Đối với các quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, Bộ luật TTHS và các văn bản hướng dẫn chưa có quy định cụ thể những quyết định nào là đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ thời điểm nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án, Tòa án ra nhiều quyết định tố tụng khác nhau, chẳng hạn, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là các quyết định phân công hoặc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên, Thư ký; quyết định tạm giam; quyết định bắt, tạm giam; quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn; quyết định áp dụng, đình chỉ biện pháp bắt buộc chữa bệnh; quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, quyết định trưng cầu giám định; quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định trả hồ sơ vụ án (để truy tố theo thẩm quyền); quyết định đình chỉ vụ án; quyết định phục hồi vụ án; quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, trong quá trình xét xử sơ thẩm, phúc thẩm là quyết định hoãn phiên tòa; quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm; quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ vụ án; quyết định phục hồi vụ án; quyết định hoãn phiên tòa; quyết định giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; quyết định về việc giải quyết kháng cáo quá hạn;… sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, Tòa án có thể ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm. Những quyết định này do nhiều chủ thể khác nhau ban hành, có thể là Thẩm phán, Phó Chánh án, Chánh án, Hội đồng xét xử, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm… nhưng đều là những quyết định có hiệu lực pháp luật.
Vì vậy, trong các nghiên cứu về giám đốc thẩm trong TTHS còn có nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định quyết định nào là đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm. Qua thực tiễn công tác giám đốc thẩm, một số Kiểm sát viên, Thẩm phán khi báo cáo hoặc trao đổi nghiệp vụ đã cho rằng, tất cả các quyết định có hiệu lực pháp luật do Tòa án ban hành đều là đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm.
Tuy nhiên, việc coi tất cả các quyết định của Tòa án đều là đối tượng của giám đốc thẩm có thể dẫn đến tình trạng kháng nghị tràn lan, không phù hợp với bản chất và mục đích của thủ tục giám đốc thẩm.
Bởi vì, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng gồm cả Tòa án ban hành nhiều quyết định tố tụng khác nhau để xác định sự thật vụ án. Có những quyết định mà tính chất, hiệu lực không khác gì nhau, mặc dù được ban hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, chẳng hạn các quyết định phân công, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn…
Các quyết định này nếu tách riêng lẻ thì bản thân từng quyết định không thể giải quyết triệt để vụ án mà chỉ có ý nghĩa trong việc đảm bảo hoạt động chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đúng pháp luật, khách quan, toàn diện, đầy đủ và xác định tội phạm, xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội. Các quyết định này chỉ là đối tượng của hoạt động kiến nghị, khiếu nại mà không thể là đối tượng kháng cáo, kháng nghị trong hoạt động xét xử.
Do đó, điều kiện để các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án trở thành đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm là:
– Phải được quyết định bởi Hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm.
– Các quyết định này phải giải quyết định nội dung thực chất của vụ án.
– Phải là quyết định giải quyết cuối cùng, dứt điểm đối với vụ án đó.
– Phát sinh hiệu lực pháp luật.
Ai có quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm?
Theo Điều 372 BLTTHS 2015:
– Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị.
– Tòa án nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện để phát hiện vi phạm pháp luật và kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị.
Tòa án quân sự cấp quân khu thực hiện việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực để phát hiện vi phạm pháp luật và kiến nghị Chánh án Tòa án quân sự trung ương xem xét kháng nghị.
– Khi thực hiện công tác giám đốc việc xét xử, kiểm sát việc xét xử hoặc qua các nguồn thông tin khác mà Tòa án, Viện kiểm sát phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì thông báo ngay bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị.
Thủ tục thông báo bản án, quyết định của Tòa án cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm?
– Khi phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo bằng văn bản hoặc trình bày trực tiếp với người có thẩm quyền kháng nghị hoặc với Tòa án, Viện kiểm sát nơi gần nhất kèm theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có).
– Văn bản thông báo có các nội dung chính:
Ngày, tháng, năm;
Tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo;
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị phát hiện có vi phạm pháp luật;
Nội dung vi phạm pháp luật được phát hiện;
Kiến nghị người có thẩm quyền xem xét kháng nghị.
– Người thông báo là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; trường hợp cơ quan, tổ chức thông báo thì người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu.
Thủ tục tiếp nhận thông báo bản án, quyết định của Tòa án cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm?
Trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không có quy định về Thủ tục thông báo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm và Thủ tục tiếp nhận thông báo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Điều 375 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định thủ tục tiếp nhận thông báo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm:
+ Khi nhận được thông báo bằng văn bản thì Tòa án, Viện kiểm sát phải vào sổ nhận thông báo. Khi người bị kết án, cơ quan, tổ chức, cá nhân trình bày trực tiếp về vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì Tòa án, Viện kiểm sát phải lập biên bản; nếu người thông báo cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì Tòa án, Viện kiểm sát phải lập biên bản thu giữ;
+ Tòa án, Viện kiểm sát đã nhận thông báo, lập biên bản phải gửi ngay thông báo, biên bản kèm theo các chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) cho người có thẩm quyền kháng nghị và thông báo lại bằng văn bản cho người bị kết án, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã kiến nghị, đề nghị biết.
Việc bổ sung các quy định về thông báo và nhận thông báo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, theo đó không chỉ Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền, mà cả Tòa án, Viện kiểm sát nơi gần nhất có trách nhiệm tiếp nhận và gửi thông báo về bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm cho người có thẩm quyền kháng nghị là rất cần thiết nhằm không những nâng cao trách nhiệm của Tòa án và Viện kiểm sát đối với người bị kết án, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc khắc phục những vi phạm pháp luật của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, mà còn nâng cao tính kịp thời, hiệu quả trong tiếp nhận yêu cầu giám đốc thẩm; khắc phục được tình trạng đơn yêu cầu được chuyển lòng vòng không đúng địa chỉ.
Phaplynhanh.vn đang hỗ trợ cho người dân, doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp cả nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật sư Hình sự, Luật sư Hôn nhân Gia đình, Luật sư Dân sự, Luật sư Doanh Nghiệp, Luật sư Đất đai… tư vấn ly hôn nhanh, tư vấn luật thừa kế,… liên hệ với chúng tôi qua thông tin tại Website, Hotline: 0907520537 hoặc Fanpage: Pháp lý nhanh.VN


THÔNG TIN VỀ CHÚNG TÔI:
Trụ sở chính: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON25 Đồng Xoài, phường Tân Bình, TP Hồ Chí Minh.Chi nhánh Bình Dương: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON – CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG569 Đại lộ Bình Dương, phường Thủ Dầu Một, TP Hồ Chí Minh.Điện thoại: 0377.377.877 – 0907.520.537 (Zalo)– 0855.017.017 (Hôn nhân) - 0907 520 537 (Tố tụng)Website: adbsaigon.com; Email: info@adbsaigon.com