Địa diện được hiểu như thế nào? Bản chất của đại diện là gì? Quy định về đại diện theo pháp luật? Cùng tìm hiểu bài viết bên dưới.
Mục lục bài viết
Đại diện được hiểu như thế nào?
Chế định pháp luật về đại diện ở đây có thể hiểu theo nghĩa hẹp đó là là tổng thể các quy phạm pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình điều chỉnh nhóm quan hệ về đại diện giữa những chủ thế pháp luật cụ thể. Các cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ đại diện bắt buộc phải tuân thủ các quy định pháp luật về đại diện. Đại diện còn được tiếp cận là một quan hệ pháp luật dân sự – hôn nhân và gia đình. Qua việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự khẳng định đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự.
Đại diện giữa vợ và chồng là việc một bên vợ hoặc chồng nhân danh bên kia hoặc nhân danh vợ chồng, xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch theo quy định của luật HN&GĐ, BLDS và các luật khác liên quan hoặ theo ý chí của vợ (hoặc chồng) ủy quyền cho chồng (hoặc vợ) thực hiện thay trong các giao dịch mà pháp luật đòi hỏi phải có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, của gia đình và bên thứ ba trong giao dịch.
Bản chất và đặc điểm của đại diện giữa vợ và chồng?
Bản chất
Bản chất pháp lý của quan hệ đại diện giữa vợ và chồng là đại diện trong quan hệ dân sự với tư cách là một cá nhân. Với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong giao lưu dân sự vợ, chồng vừa tham gia với tư cách là một cá nhân độc lập trong quan hệ dân sự, thương mại, nhưng bên cạnh đó lại tham gia với tư cách đặc biệt là đại diện cho vợ hoặc chồng mình và đôi khi là đại diện cho cả gia đình.
Đại diện giữa vợ và chồng là đại diện gắn với tài sản chung (TSC) của gia đình và tài sản riêng (TSR) của mỗi bên. Pháp luật thừa nhận quyền đại diện giữa vợ và chồng nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng linh hoạt trong việc thực hiện các chức năng của gia đình. Trên cơ sở đại diện hợp pháp, vợ hoặc chồng có thể tự mình xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến TSC, TSR phù hợp với lợi ích của cá nhân vợ hoặc chồng và gia đình.
Việc đại diện của vợ chồng đang nhằm mục đích đảm bảo quyền và lợi ích của người được đại diện, bảo vệ quyền lợi cho gia đình, con cái của mình.
Đặc điểm
Đại diện giữa vợ và chồng chỉ đặt ra khi được pháp luật thừa nhận là vợ chồng hợp pháp, nhĩa là hai người phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn. Vợ và chồng đại diện cho nhau trong các quan hệ liên quan tới tài sản. Vợ chồng không thể xác lập quan hệ đại diện liên quan đến các quyền và nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của họ được, ví dụ: quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cái,…
Trong quan hệ đại diện, lợi ích của người được đại diện, người đại diện thống nhất với nhau và trong nhiều trường hợp còn gắn liền với lợi ích chung của gia đình. Trong nhiều trường hợp, các giao dịch liên quan đến TSC của vợ chồng nên nhiều khi không phân biệt rõ ràng ai là người đại diện, ai là người được đại diện nhưng tóm lại là lợi ích là thống nhất với nhau và gắn lợi ích chung gia đình.
Quy định về đại diện theo pháp luật?
Đại diện khi một trong hai bên bị mất NLHVDS
Điều 19 BLDS 2015 có quy định:
“Điều 19. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự mà một người bị coi là mất NLHVDS khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần
“Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự
1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.”
Đối với người mất NLHVDS thì pháp luật quy định bắt buộc phải có người giám hộ. BLDS 2015 quy định vợ hoặc chồng là người giám hộ đương nhiên, đầu tiên của vợ hoặc chồng bị mất NLHVDS khi người này không có người giám hộ được xác định theo khoản 2 điều 48, khoản 1 điều 53 BLDS 2015 quy định:
“Điều 53. Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự
Trường hợp không có người giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này thì người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được xác định như sau:
1. Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.
2. Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.
3. Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.”
Sở dĩ quy định như vậy là do bản chất của quan hệ hôn nhân, người vợ chồng là người gần gũi nhất, cùng sống chung, sinh con đẻ cái, tạo dựng gia đình… Khi một bên bị mất NLHVDS thì người còn lại đại diện sẽ thuận lợi trong việc quản lí, sử dụng tài sản chung vì lợi ích của vợ chồng và gia đình.Người vợ hoặc chồng là người đại diện theo pháp luật của người còn lại khi thỏa mãn quy định tại điều 49 BLDS 2015.
Vợ hoặc chồng làm đại diện theo pháp luật của người bị mất NLHVDS sẽ có nhiều quyền và nghĩa vụ hơn khi làm đại diện được quy định tại khoản 1 điều 57 khoản 1 điều 58, khoản 2 điều 59 BLDS 2015.
Đại diện khi một bên bị hạn chế NLHVDS
Hạn chế năng lực hành vi dân sự là khi một cá nhân:
“Điều 24. Hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.”
Tại khoản 3 điều 24 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì:
“Điều 24. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng
…
3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.”
Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.
Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn”.
Việc quy định này là hoàn toàn phù hợp với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hạn chế NLHVDS. Người đại diện đóng vai trò giám sát, đồng ý hoặc không đồng ý cho xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân sự; nếu giao dịch nào mà không có sự đồng ý của người đại diện thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bó giao dịch vô hiệu theo điều 122 BLDS.
Xin mời xem thêm…
Có được phép ép buộc con cái phải theo tôn giáo của cha mẹ?
Lấy vợ theo Đạo Thiên Chúa có buộc phải theo đạo không?
Người theo đạo có được kết hôn với người trong ngành công an?
Chồng không cho vợ đi học và bắt phải ở nhà nội trợ cho gia đình có vi phạm pháp luật không?
Chồng có thể ủy quyền cho vợ mua bán nhà đất không?
Phaplynhanh.vn đang hỗ trợ cho người dân, doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp cả nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật sư Hình sự, Luật sư Hôn nhân Gia đình, Luật sư Dân sự, Luật sư Doanh Nghiệp, Luật sư Đất đai… tư vấn ly hôn nhanh, tư vấn luật thừa kế,… liên hệ với chúng tôi qua thông tin tại Website Phaplynhanh.vn, Hotline: 0907520537 hoặc Fanpage: Pháp lý nhanh.VN


THÔNG TIN VỀ CHÚNG TÔI:
Trụ sở chính: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON25 Đồng Xoài, phường Tân Bình, TP Hồ Chí Minh.Chi nhánh Bình Dương: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON – CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG569 Đại lộ Bình Dương, phường Thủ Dầu Một, TP Hồ Chí Minh.Điện thoại: 0377.377.877 – 0907.520.537 (Zalo)– 0855.017.017 (Hôn nhân) - 0907 520 537 (Tố tụng)Website: adbsaigon.com; Email: info@adbsaigon.com