Trong quá trình truy tố, xét xử vụ án hình sự, những vụ án hình sự mà trong đó các chứng cứ được thu thập chưa đầy đủ, chưa rõ ràng hoặc các chứng cứ có nội dung mâu thuẫn chưa thể xác minh, làm rõ ngay được để chứng minh những vấn đề được quy định tại Điều 85, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thì Viện Kiểm sát, Tòa án sẽ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung để củng cố, làm rõ những nội dung còn mâu thuẫn, chưa rõ ràng, phục vụ cho hoạt động truy tố, xét xử diễn ra hiệu quả. Các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự? Mời bạn hãy cùng PHAPLYNHANH.VN tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
Cơ sở pháp lý
Điều 245 Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Thông tư liên tịch 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC
Các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung

Các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố?
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố là một trong những quyết định của Viện kiểm sát sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự cùng với bản kết luận điều tra đề nghị truy tố do cơ quan điều tra hoặc cơ quan khác có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra gửi đến, trong trường hợp, hồ sơ vụ án còn thiếu những chứng cứ quan trọng; có tội phạm khác do bị can thực hiện hoặc có người đồng phạm khác chưa được khởi tố hoặc có những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
Khoản 1 Điều 245 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định các trường hợp Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung như sau:
“Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ vụ án, yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:
- Còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được;
- Có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác;
- Có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can;
- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.”
Trả hồ sơ điều tra bổ sung trong trường hợp còn thiếu chứng cứ?
Trường hợp một: Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ vụ án, yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung khi còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được.
Chứng cứ quan trọng đối với vụ án là những chứng cứ có tính quyết định đối với việc giải quyết các vấn đề quan trọng trong vụ án như:
– xác định sự liên quan của bị can đối với hành vi đã được thực hiện; xác định năng lực trách nhiệm hình sự của bị can; xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; xác định có hay không lỗi của bị can trong việc thực hiện hành vi; hình thức lỗi; để đánh giá mức độ thiệt hại vật chất; để xác định tội danh hoặc khoản mục trong điều luật hình sự cần áp dụng, và những vấn đề quan trọng khác.
Các chứng cứ quan trọng đó chỉ có thể thu thập qua công tác điều tra, tự bản thân Viện kiểm sát không tự bổ sung được. Điều đó có nghĩa là để phát hiện thu thập những cứ đó phải có những hoạt động nghiệp vụ chuyên môn sâu và đòi hỏi phải phân tích, xử lý những tình huống phức tạp trong quá trình điều tra. Nếu thiếu những chứng cứ quan trọng như nói trên mà tự Viện kiểm sát có thể bổ sung được thì không nhất thiết phải trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.
Chứng cứ để chứng minh những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự là chứng cứ quy định tại Điều 86, Điều 87 của Bộ luật Tố tụng hình sự dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 85, Điều 441 của Bộ luật Tố tụng hình sự mà nếu thiếu chứng cứ này thì không giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.
Căn cứ Thông tư liên tịch 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC, khi thiếu chứng cứ thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
- Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là chứng cứ để xác định hành vi đã xảy ra có đủ yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi phạm tội (quan hệ dân sự, kinh tế, vi phạm hành chính và các trường hợp khác theo quy định của luật);
- Chứng cứ để chứng minh “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào;
- Chứng cứ để chứng minh “ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định một chủ thể cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;
- Chứng cứ để chứng minh “có lỗi hay không có lỗi” là chứng cứ xác định chủ thể có lỗi hoặc không có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; nếu có lỗi thì là lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả theo quy định tại Điều 10 và Điều 11 của Bộ luật Hình sự;
- Chứng cứ để chứng minh “có năng lực trách nhiệm hình sự không” là chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự chưa; có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không; nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào, trong giai đoạn tố tụng nào;
- Chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác định chủ thể thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì; mục đích, động cơ phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay là tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt;
- Chứng cứ để chứng minh “tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo” là chứng cứ xác định bị can, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 51, Điều 84 của Bộ luật Hình sự hoặc áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52, Điều 85 của Bộ luật Hình sự;
- Chứng cứ để chứng minh “đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo” là chứng cứ xác định lý lịch của bị can, bị cáo; nếu bị can, bị cáo là pháp nhân thương mại thì phải chứng minh tên, địa chỉ và những vấn đề khác có liên quan đến địa vị pháp lý và hoạt động của pháp nhân thương mại;
- Chứng cứ để chứng minh “tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” là chứng cứ để đánh giá tính chất, mức độ thiệt hại, hậu quả về vật chất, phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra;
- Chứng cứ để chứng minh “nguyên nhân và điều kiện phạm tội” là chứng cứ xác định nguyên nhân chủ quan, khách quan, điều kiện cụ thể dẫn đến việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội;
- Chứng cứ để chứng minh “những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt” là chứng cứ chứng minh những vấn đề được quy định tại các điều 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 59, 88 và các điều luật khác của Bộ luật Hình sự;
- Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật Tố tụng hình sự mà thiếu chứng cứ đó thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án, như: chứng cứ để xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi; chứng cứ để chứng minh vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức; chứng cứ để xác định trách nhiệm dân sự của bị can, bị cáo và những vấn đề khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật;
- Trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội thì ngoài việc xác định chứng cứ trong các trường hợp được quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k, l và m khoản này còn phải xác định chứng cứ để chứng minh điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo quy định tại Điều 75 của Bộ luật Hình sự.
Không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ để chứng minh thuộc một trong các trường hợp nêu trên nhưng vẫn truy tố, xét xử được hoặc không thể thu thập được chứng cứ đó.
Trả hồ sơ điều tra bổ sung khi có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác?
Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ vụ án, yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung khi có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác.
Vấn đề có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác, có thể xuất hiện do quá trình điều tra cơ quan điều tra bỏ sót tội phạm, cũng có thể do cơ quan điều tra định hướng sai, đánh giá sai các chứng cứ, áp dụng sai điều luật v.v…
Vì vậy, để khởi tố bị can về một tội phạm khác thì nhất thiết phải thu thập thêm chứng cứ và làm rõ thêm những dấu hiệu thuộc các yếu tố cấu thành tội phạm mà trong hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra chưa có. Ngoài ra, khi có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác thì điều đó cũng phải được ghi rõ trong bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. Chính vì thế Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ và yêu cầu điều tra bổ sung.
Khi có căn cứ để khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác thì Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
- Khởi tố và điều tra về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;
- Ngoài tội phạm đã khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can về một hoặc nhiều tội khác;
Viện kiểm sát không trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp sau đây:
- Nếu có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Nếu quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án có căn cứ mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 246 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả hồ sơ điều tra bổ sung khi có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án?
Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ vụ án, yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung khi có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can.
Khi có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can thì Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung: Ngoài bị can đã bị khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác có liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can.
Viện kiểm sát không trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp sau đây:
- Nếu có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Nếu quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án có căn cứ mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 246 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trả hồ sơ điều tra bổ sung khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng?
Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ vụ án, yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Khi có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
- Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;
- Không chỉ định, thay đổi hoặc chấm dứt việc chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
- Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Nhập vụ án hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án cho người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác;
- Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của bị can, bị cáo (tuổi, tiền án, tiền sự), lý lịch hoạt động của pháp nhân thương mại phạm tội (tên, địa chỉ, những vấn đề khác liên quan đến hồ sơ pháp lý của pháp nhân thương mại);
- Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt; họ là người câm, người điếc, người mù theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định tại các điều 49, 51, 52, 53, 54, 68, 69 và 70 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;
- Biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà không chuyển cho Viện kiểm sát theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 88 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn đến sai lệch hồ sơ vụ án;
- Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
- Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;
- Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ;
- Những trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trên đây là các thông tin pháp luật phổ biến về Các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự? theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định. Ngoài ra, quý khách hàng còn các vấn đề pháp luật nào cần hỗ trợ tư vấn xin vui lòng liên hệ Pháp lý nhanh.
Pháp lý nhanh hiện đang hỗ trợ cho người dân, doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp cả nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật sư Hình sự, Luật sư Hôn nhân Gia đình, Luật sư Dân sự, Luật sư Doanh Nghiệp, Luật sư Đất đai……..tư vấn ly hôn nhanh, tư vấn luật thừa kế, luật sư Hình sự giỏi…..vui lòng liên hệ với chúng tôi qua thông tin tại Website, Hotline: 0907520537 hoặc Fanpage: Pháp lý nhanh.VN
Tìm hiểu thêm:
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG?
Chứng cứ, nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự?
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Bắt người phạm tội quả tang là gì?
Xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự
Thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử trong vụ án hình sự

THÔNG TIN VỀ CHÚNG TÔI:
Trụ sở chính: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON25 Đồng Xoài, phường Tân Bình, TP Hồ Chí Minh.Chi nhánh Bình Dương: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON – CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG569 Đại lộ Bình Dương, phường Thủ Dầu Một, TP Hồ Chí Minh.Điện thoại: 0377.377.877 – 0907.520.537 (Zalo)– 0855.017.017 (Hôn nhân) - 0907 520 537 (Tố tụng)Website: adbsaigon.com; Email: info@adbsaigon.com