Bên cạnh với việc giải quyết vụ án hình sự, pháp luật Việt Nam cho phép Tòa án giải quyết cả vấn đề dân sự liên quan đến tội phạm. Mọi người đều được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe mà cả về tài sản, danh dự, nhân phẩm. Yêu cầu xét xử đối với vụ án hình sự không chỉ là giải quyết tốt về mặt hình sự mà cần giải quyết tốt cả vấn đè dân sự có liên quan.
Mục lục bài viết
Căn cứ pháp lý?
Theo Điều 30 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định:
“Điều 30. Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.”
Phân tích nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự?
Hiện nay có rất nhiều trường hợp làm phát sinh không chỉ có quan hệ pháp luật hình sự mà còn làm phát sinh quan hệ dân sự, tố tụng hình sự. Và đó là quan hệ bồi thường thiệt hại, bồi hoàn. Trong trường hợp đó, BLHS quy định quy định nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Ví dụ 1: A đang điều khiển xe máy đi trên đường, không may va vào B, hai bên có xảy ra cãi vã, trong lúc đang xảy ra tranh cãi A đã nhặt một viên gạch gần đó đập vào đầu B khiến B phải nhập viện, theo kết quả giám định cho thấy sức khỏe của B đã bị suy giảm 20 %. Như vậy, với trường hợp trên A sẽ bị khởi tố về hành vi cố ý gây thương tích đối với B và phải bồi thường tổn thất về sức khỏe cho B.
Ví dụ 2: A làm hư hỏng 01 chiếc gương xe và 01 kính chắn gió phía trước xe ô tô của B, kết luận đinh giá tài sản xác định giá trị của 01 gương xe là 5.000.000đ, 01 kính chắn gió phía trước xe ô tô trị giá 5.000.000đ. Tổng giá trị thiệt hại là 10.000.000đ. Cơ quan tiến hành tố tụng huyện X đã khởi tố, điều tra A về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản.
Tại phiên tòa, B đồng ý với kết luận định giá tổng giá trị tài sản là 10.000.000đ và yêu cầu B phải bồi thường thêm số tiền công sửa chữa là 10.000.000đ, tổng số B đề nghị A phải bồi thường 20.000.000đ.
Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự bao gồm việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi thường giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất, hoặc bị hủy hoại, buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt. Đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự, nó chứa đựng những nội dung thể hiện phương châm, định hướng của Nhà nước ta là giải quyết vấn đề dân sự cùng với trách nhiệm hình sự trong vụ án hình sự, không tách riêng vấn đề dân sự để giải quyết riêng theo thủ tục tố tụng dân sự như pháp luật của một số nước trên thế giới. Nguyên tắc này chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ án có vấn đề dân sự nảy sinh do việc thực hiện tội phạm.
Vì vậy trong quá trình tố tụng, ngoài việc phải chứng minh và giải quyết phần trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh và giải quyết cả phần trách nhiệm dân sự trong một vụ án một cách chính xác, khách quan, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Nguyên tắc này không những giải quyết được triệt để, khách quan những quan hệ dân sự phát sinh do hành vi phạm tội gây ra mà còn góp phần làm sáng tỏ những nội dung thuộc trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong việc định tội danh và định khung hình phạt hoặc việc khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội đó gây ra.
Về nguyên tắc chung phần dân sự trong vụ án hình sự phải được giải quyết cùng với xem xét về phần hình sự trong cùng vụ án hình sự. Chỉ được tách để giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự bằng một vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu, nếu “chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự”.
– “Chưa có điều kiện chứng minh”: Chưa tìm được, chưa xác định được người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự; người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu; người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự đã có yêu cầu nhưng không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình theo yêu cầu của các CQTHTT nói chung và của Tòa án nói riêng; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa và sự vắng mặt của họ thật sự trở ngại cho việc giải quyết việc giải quyết phần dân sự.
– “Không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự” được hiểu là việc tách để giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự nếu việc tách đó không liên quan hoặc không ảnh hưởng đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
So sánh giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và giải quyết tranh chấp dân sự theo tố tụng dân sự?
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, nhiều vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét vấn đề dân sự.Cũng là giải quyết vấn đề dân sự, nhưng việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự có những điểm giống và khác nhau với việc giải quyết tranh chấp dân sự theo tố tụng dân sự.
Sự khác nhau là:
– Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được áp dụng theo thủ tục tổ tụng hình sự.
– Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự không có thủ tục hòa giải.
– Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự thì nghĩa vụ chứng minh, thu thập chứng cứ thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Còn giải quyết tranh chấp dân sự thì nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh thuộc về các bên đương sự.
Sự giống nhau là:
– Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự cũng phải tuân theo nguyên tắc trong tố tụng dân sự: Quyền tự quyết định và tự định đoạt của các đương sự.
– Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự cũng phải áp dụng các qui định của Bộ luật dân sự để giải quyết.
Trường hợp vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tách ra giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự?
Theo quy định của Điều 30 của BLTTHS, trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Theo hướng dẫn của Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19-9-2003 của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án chỉ được tách để giải quyết phần hay một phần dân sự trong vụ án hình sự bằng một vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu, nếu phần dân sự được tách không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Chưa tìm được, chưa xác định được bị hại hoặc nguyên đơn dân sự.
– Bị hại hoặc nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu.
– Bị hại hoặc nguyên đơn dân sự đã có yêu cầu, nhưng không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và của Toà án nói riêng.
– Bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân dự vắng mặt tại phiên toà và sự vắng mặt của họ thật sự trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự.
Xác định vấn đề dân sự phải được giải quyết trong vụ án hình sự?
Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ có phạm vi áp dụng đối với những quan hệ về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xuất hiện do việc thực hiện tội phạm.
Theo đó, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ bao gồm: Đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường giá trị tài sản do bị chiếm đoạt, nhưng đã bị mất hoặc bị hủy hoại; buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng; đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Như vậy, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ được xác định trong phạm vi “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” theo quy định tại chương XX của Bộ luật Dân sự năm 2015, là những quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại.
Ví dụ: Trong vụ án hình sự “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” đối với bị cáo A (là nhân viên lái xe của Công ty vận tải X). Trong khi thực hiện nhiệm vụ được Công ty vận tải X phân công, A có hành vi điều khiển xe ô tô tải đi không đúng phần đường gây tai nạn giao thông làm bị hại B chết.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trên, người đại điện hợp pháp của bị hại B yêu cầu Tòa án phải đưa Công ty Bảo hiểm Y – là doanh nghiệp đã ký hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự với Công ty vận tải X đối với xe ô tô tải – vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là bị đơn dân sự và yêu cầu Công ty Bảo hiểm Y trực tiếp bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại B.
Bởi vì, việc giải quyết bồi thường thiệt hại trong vụ án này xuất phát từ hành vi của bị cáo A gây ra là quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; vấn đề bồi thường thiệt hại cho bị hại B thuộc trách nhiệm bồi thường của bị cáo A hoặc Công ty Vận tải X phải được giải quyết trong cùng vụ án hình sự.
Còn mối quan hệ giữa Công ty Vận tải X và Công ty Bảo hiểm Y là mối quan hệ giữa người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm được phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết giữa hai bên, không liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại B.
Đồng thời, theo quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật Kinh doanh bảo hiểm, người thứ ba không có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Do đó, không cần thiết phải đưa Công ty Bảo hiểm Y vào tham gia tố tụng trong vụ án hình sự trên.
Xem thêm…
Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm?
Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án?
Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự?
Phaplynhanh.vn đang hỗ trợ cho người dân, doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp cả nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật sư Hình sự, Luật sư Hôn nhân Gia đình, Luật sư Dân sự, Luật sư Doanh Nghiệp, Luật sư Đất đai… tư vấn ly hôn nhanh, tư vấn luật thừa kế,… liên hệ với chúng tôi qua thông tin tại Website, Hotline: 0907520537 hoặc Fanpage: Pháp lý nhanh.VN


THÔNG TIN VỀ CHÚNG TÔI:
Trụ sở chính: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON25 Đồng Xoài, phường Tân Bình, TP Hồ Chí Minh.Chi nhánh Bình Dương: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON – CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG569 Đại lộ Bình Dương, phường Thủ Dầu Một, TP Hồ Chí Minh.Điện thoại: 0377.377.877 – 0907.520.537 (Zalo)– 0855.017.017 (Hôn nhân) - 0907 520 537 (Tố tụng)Website: adbsaigon.com; Email: info@adbsaigon.com