Phạm vi hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự?

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng, hướng tới mục tiêu hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự.

Căn cứ pháp lý?

Theo Điều 491 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định:

Điều 491. Phạm vi hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự

1. Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là việc các cơ quan có thẩm quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài phối hợp, hỗ trợ nhau để thực hiện hoạt động phục vụ yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

2. Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự gồm tương trợ tư pháp về hình sự; dẫn độ; tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và các hoạt động hợp tác quốc tế khác được quy định tại Bộ luật này, pháp luật về tương trợ tư pháp và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

3. Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại, theo quy định của Bộ luật này, pháp luật về tương trợ tư pháp và quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan.”

Phạm vi điều chỉnh của Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự?

Một trong những nội dung mới quan trọng của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 là làm rõ khái niệm nội hàm, xác định cụ thể phạm vi và nguyên tắc áp dụng pháp luật khi thực hiện hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự trên lãnh thổ Việt Nam.

Thực tiễn hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự thời gian qua đã nảy sinh nhiều quan điểm khác nhau liên quan những nội dung này, nhất là về phạm vi hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. Có ý kiến cho rằng, dựa theo kết cấu của Luật tương trợ tư pháp năm 2007, có thể hiểu phạm vi hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự bao gồm: (1) Tương trợ tư pháp về hình sự; (2) Dẫn độ; (3) Chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù.

Tuy nhiên, trong thực tiễn, phát sinh nhiều yêu cầu khác nằm ngoài phạm vi của 3 hoạt động nêu trên, chẳng hạn như: xử lý tài sản do phạm tội mà có, phối hợp điều tra hoặc áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt… Những yêu cầu này cũng được thể hiện cụ thể trong một số điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Chẳng hạn, Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia quy định các quốc gia thành viên có thể phối hợp, hỗ trợ nhau thực hiện: hợp tác quốc tế trong tịch thu tài sản (Điều 13); xử lý tài sản do phạm tội mà có bị tịch thu hoặc tài sản bị tịch thu (Điều 14); dẫn độ (Điều 16); chuyển giao người bị kết án (Điều 17); tương trợ pháp lý (Điều 18); phối hợp điều tra (Điều 19); các kỹ thuật điều tra đặc biệt (Điều 20).

Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng quy định các hoạt động hợp tác quốc tế giữa các quốc gia bao gồm: dẫn độ (Điều 44); chuyển giao người bị kết án (Điều 45); tương trợ pháp lý (Điều 46); chuyển giao vụ án hình sự (Điều 47); hợp tác thực thi pháp luật (Điều 48); điều tra chung (Điều 49); kỹ thuật điều tra đặc biệt (Điều 50).

Nhằm xử lý những vướng mắc, bất cập nêu trên và bảo đảm sự thống nhất với quy định của Luật tương trợ tư pháp, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xác định rõ: hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự là việc các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài phối hợp, hỗ trợ nhau để thực hiện các hoạt động phục vụ yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Phạm vi hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự gồm: (1) Tương trợ tư pháp về hình sự; (2) Dẫn độ; (3) Tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù; (4) Các hoạt động hợp tác quốc tế khác. Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự trên lãnh thổ Việt Nam được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, pháp luật về tương trợ tư pháp và quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan.

Nguồn pháp luật điều chỉnh hợp tác quốc tế trong TTHS?

Nguồn luật là một nội dung quan trọng nhằm xác định cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật, giúp cho quá trình thực thi, áp dụng pháp luật diễn ra thuận lợi. Hợp tác quốc tế trong hệ thống pháp luật nước ta được quy định ở BLTTHS, Luật tương trợ tư pháp và các hiệp định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hình sự mà Việt Nam đã ký kết với các nước.

Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định rõ nguồn áp dụng, phạm vi áp dụng của các văn bản này. Khắc phục hạn chế đó, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định nguồn pháp luật áp dụng là: “Quy định tại BLTTHS, pháp luật về tương trợ tư pháp và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”

Điều 491 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã quy định rõ ràng về phạm vi của hợp tác quốc tế trong TTHS “Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại, theo quy định của BLTTHS, pháp luật về tương trợ tư pháp và quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan.”

Phạm vi hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự - Tư vấn, hỗ trợ pháp lý nhanh

Quy định mới về cơ quan trung ương về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự?

Đặc trưng của hợp tác quốc tế trong TTHS là quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia (nước yêu cầu và nước được yêu cầu), do đó, bên cạnh những thủ tục tố tụng thông thường của tố tụng hình sự, các hoạt động dẫn độ, tương trợ tư pháp, chuyển giao người phạm tội còn có các hoạt động ngoại giao giữa nước yêu cầu và nước được yêu cầu cần sự điều chỉnh của các quy tắc về ngoại giao và hợp tác quốc tế khác. Vì vậy, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định cơ quan trung ương về hợp tác quốc tế trong TTHS, cụ thể:

– Bộ Công an là Cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hoạt động dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù. Trong lĩnh vực dẫn độ, Nhà nước ta quy định Bộ công an là cơ quan trung ương giữ vai trò đầu mối và chỉ đạo thực hiện các hoạt động về dẫn độ.

Trách nhiệm cụ thể của Bộ công an đã được quy định tại Điều 65 Luật tương trợ tư pháp 2007, tuy nhiên dẫn độ là một nội dung của hợp tác quốc tế trong TTHS cần phải quy định ở BLTTHS với tính chất quy phạm điều chỉnh quan hệ tố tụng hình sự đối với chủ thể liên quan. Điều 495 BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể như sau: “Bộ Công an là Cơ quan Trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hoạt động dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù.”

 – Viện kiểm sát nhân dân tối cao là Cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự và những hoạt động hợp tác quốc tế khác theo quy định của pháp luật.

Xem thêm…

Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ?

Chấm dứt việc bảo vệ?

Hồ sơ bảo vệ?

Phaplynhanh.vn  đang hỗ trợ cho người dân, doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp cả nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật sư Hình sựLuật sư Hôn nhân Gia đìnhLuật sư Dân sựLuật sư Doanh NghiệpLuật sư Đất đaitư vấn ly hôn nhanhtư vấn luật thừa kế,… liên hệ với chúng tôi qua thông tin tại Website, Hotline: 0907520537 hoặc Fanpage: Pháp lý nhanh.VN

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *