Việc hỏi bị cáo được tiến hành như thế nào? Chủ tọa phiên tòa phải quyết định hỏi riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì chủ tọa phiên tòa phải cách ly họ. Bị cáo bị cách ly được thông báo lại nội dung lời khai của bị cáo trước và có quyền đặt câu hỏi đối với bị cáo đó.
Mục lục bài viết
Căn cứ pháp lý?
Theo Điều 309 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định:
“Điều 309. Hỏi bị cáo
1. Chủ tọa phiên tòa phải quyết định hỏi riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì chủ tọa phiên tòa phải cách ly họ. Bị cáo bị cách ly được thông báo lại nội dung lời khai của bị cáo trước và có quyền đặt câu hỏi đối với bị cáo đó.
2. Bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Hội đồng xét xử hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án.
Người bào chữa hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa và tình tiết khác của vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hỏi bị cáo về những tình tiết liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự.
Những người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ toạ phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết liên quan đến họ.
3. Nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án.
Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có liên quan đến bị cáo.”
Bị cáo có quyền gì?
Quyền của bị cáo được quy định tại Khoản 2 Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018). Cụ thể bao gồm:
a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
b) Tham gia phiên tòa;
c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;
m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Việc hỏi bị cáo tại phiên tòa hình sự được tiến hành như thế nào?
Việc hỏi bị cáo tại phiên tòa hình sự được quy định tại Điều 309 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018). Theo đó:
1. Chủ tọa phiên tòa phải quyết định hỏi riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì chủ tọa phiên tòa phải cách ly họ. Bị cáo bị cách ly được thông báo lại nội dung lời khai của bị cáo trước và có quyền đặt câu hỏi đối với bị cáo đó.
2. Bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Hội đồng xét xử hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án.
Người bào chữa hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa và tình tiết khác của vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hỏi bị cáo về những tình tiết liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự.
Những người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ toạ phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết liên quan đến họ.
3. Nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án.
Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có liên quan đến bị cáo.
Quy định về hỏi bị cáo?
Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Tư cách bị cáo kể từ thời điểm Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị can trở thành bị cáo.
Theo quy định hiện hành, thì khi hỏi bị cáo, Hội đồng xét xử phải hỏi riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì chủ toạ phiên toà phải cách ly họ. Bị cáo bị cách ly được thông báo lại nội dung lời khai của bị cáo trước và có quyền đặt câu hỏi với bị cáo đó (khoản 1 Điều 309 BLTTHS).
Theo quy định tại khoản 2 Điều 309 BLTTHS, thì trước khi hỏi bị cáo, chủ toạ phiên toà phải để bị cáo trình bày ý kiến của họ về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án, sau đó Hội đồng xét xử mới hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc còn mâu thuẫn.
Quy định là như vậy, nhưng thực tiễn xét xử rất ít khi chủ toạ phiên toà để bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án, vì sợ rằng làm như vậy sẽ mất thời gian, có bị cáo cầm bản cáo trạng trong tay đọc từng đoạn rồi có ý kiến về những tình tiết mà bản cáo trạng nêu, có khi mất cả giờ đồng hồ, nếu cứ để bị cáo trình bày theo ý của họ thì có khi cả buổi cũng không xong.
Do đó, các Toà án thường đặt câu hỏi ngay đối với bị cáo khi bắt đầu việc xét hỏi, nếu có bị cáo nào muốn trình bày quan điểm của mình về bản cáo trạng thì thường được chủ toạ phiên toà giải thích rằng: “bị cáo trả lời thẳng vào câu hỏi của toà, còn những vấn đề cần trình bày sẽ được trình bày trong phần tranh luận”.
Để bảo đảm đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến thời gian xét xử, chủ toạ phiên toà chỉ để bị cáo trình bày về những vấn đề cơ bản như: tội danh, điều luật mà Viện kiểm sát truy tố hoặc bị cáo đồng ý hay không đồng ý với kết luận của bản cáo trạng, còn các tình tiết cụ thể của bản cáo trạng bị cáo có thể trình bày khi trả lời những câu hỏi của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 309 BLTTHS, thì Kiểm sát viên hỏi về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo và những tình tiết khác của vụ án. Nếu chỉ quy định cho Kiểm sát viên hỏi về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo và những tình tiết khác của vụ án là chưa thể hiện tinh thần cải cách tư pháp, mà BLTTHS nên quy định Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những cáo buộc đã được thể hiện trong bản cáo trạng
Vì tại phiên tòa Kiểm sát viên có nhiệm vụ bảo vệ cáo trạng nên Kiểm sát viên cần hỏi kỹ bị cáo về các tình tiết của vụ án. Chủ tọa phiên tòa chỉ hỏi bị cáo về những nội dung cơ bản, mà bị cáo trình bày chưa hết, chưa rõ.
Người bào chữa hỏi bị cáo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc bào chữa cho bị cáo mà mình bảo vệ. Việc người bào chữa hỏi bị cáo là nhằm gỡ tội cho bị cáo nên các tình tiết buộc tội bị cáo người bào chữa không nên hỏi bị cáo vì như vậy không chỉ vi phạm Luật Luật sư và Quy chế của Liên đoàn Luật sư mà sẽ dẫn đến sự phản cảm.
Tuy nhiên, người bảo vệ quyền lợi của bị hại thì lại nên hỏi bị cáo về những tình tiết buộc tội hoặc các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Ví dụ: Trong vụ án dâm ô người dưới 16 tuổi, người bào chữa có thể hỏi bị cáo về nhận thức của bị cáo đối với các hành vi hôn vào cơ thể bị hại, còn người bảo vệ quyền lợi của bị hại có thể hỏi bị cáo những câu hỏi có tính chất buộc tội bị cáo.
Nếu vụ án có người bào chữa bảo vệ cho bị cáo và người bảo vệ quyền lợi của bị hại thì chủ tọa phiên tòa nên dành nhiều thời gian để người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của bị hại hỏi bị cáo về các tình tiết buộc tội và gỡ tội. Chủ tọa phiên tòa chỉ điều khiển việc xét hỏi của người bào chữa với người bảo vệ quyền lợi của bị hại để phiên tòa thể hiện rõ tính chất tranh tụng giưa bên buộc tội và bên gỡ tội.
Nếu vụ án có nhiều bị cáo đều bị truy tố về một tội, thì chủ tọa phiên tòa cần hỏi các tình tiết về hành vi phạm tội của từng bị cáo, đồng thời xét hỏi để xác định vụ án có đồng phạm không? Nếu có đồng phạm thì có thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức không?
Nếu vụ án có đồng phạm và phạm tội có tổ chức thì cần hỏi về vai trò của từng bị cáo, nhất là đối với người tổ chức, người thực hành; đối với người giúp sức thì cần hỏi các tình tiết liên quan đến hành vi giúp sức có đáng kể không để làm căn cứ quyết định hình phạt và áp dụng Điều 54 BLHS; trong số những người giúp sức, có người nào không phải là đồng phạm, mà chỉ là hành vi che giấu hoặc không tố giác tội phạm.
Ví dụ: Trong vụ án trộm cắp tài sản có tổ chức, người bị truy tố là đồng phạm vì có hành vi hứa hẹn trước với người tổ chức hoặc người thực hành, thì hành vi hứa hẹn trước đó thể hiện như thế nào.
Nếu vụ án có nhiều bị cáo bị truy tố về các tội khác nhau, thì chủ tọa phiên tòa cần điều khiển việc hỏi bị cáo từng tội riêng biệt như đối với vụ án chỉ có một bị cáo.
Thực tiễn xét xử đối với vụ án có nhiều bị cáo bị truy tố về một tội hoặc về nhiều tội khác nhau nhưng chủ tọa phiên tòa tiến hành hỏi hết các bị cáo, hỏi hết các tội bị truy tố, rồi mới để người bào chữa hỏi bị cáo, còn người bị hại chỉ được hỏi sau cùng. Cách xét hỏi này tuy tiết kiệm thời gian xét xử nhưng lại không bảo đảm tính hệ thống, liên tục.
Nhiều trường hợp bị hại hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án muốn đối đáp với bị cáo hoặc muốn đặt câu hỏi với người khác cũng khó được chủ tọa chấp nhận, vì lý do thời gian.
Đối với vụ án bị cáo tham gia tố tụng với nhiều tư cách khác nhau như: vừa là bị cáo, vừa là bị hại, vừa là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, vừa là người làm chứng, thì việc xét hỏi tương đối phức tạp. Chủ tọa phiên tòa phải điều hành việc xét hỏi phù hợp với tư cách của bị cáo.
Ví dụ: Trong vụ án cố ý gây thương tích giữa hai tốp thanh niên đánh nhau. Hậu quả cả hai bên đều bị thương tích, thì chủ tọa phiên tòa nên hỏi các bị cáo với tư cách là bị cáo trước, sau đó mới tiến hành xét hỏi các bị cáo với tư cách bị hại.
Đối với bị cáo có lời khai tại phiên tòa mâu thuẫn với lời khai tại Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, hoặc bị cáo thực hiện quyền im lặng tại phiên tòa, thì chủ tọa phiên tòa công bố các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, đồng thời hỏi bị cáo vì sao có sự mâu thuẫn đó. Nếu bị cáo không trả lời thì yêu cầu thư ký phiên tòa ghi vào biên bản phiên tòa.
Trong quá trình xét hỏi bị cáo, Hội đồng xét xử có thể kết hợp hỏi những người tham gia tố tụng khác hoặc bị cáo khác để làm rõ hành vi của bị cáo đang được hỏi, thứ tự xét hỏi bị cáo cũng theo thứ tự như quy định tại Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng không nhất thiết người này hỏi xong mới tới người khác mà có thể phối hợp khi xét hỏi, chỉ cần chủ toạ hỏi trước, sau khi những người khác hỏi, chủ toạ và những người đã hỏi có thể hỏi thêm bị cáo.
Xưng hô tại phiên tòa?
Trước đây, việc xưng hô với bị cáo tại phiên toà không theo một quy định thống nhất, có người gọi bị cáo là anh, chị, ông, bà, cô, chú, thậm chí gọi bị cáo là cháu (nếu bị cáo là trẻ em) cũng có một số gọi là bị cáo nhưng không nhiều. Vậy gọi như thế nào cho đúng? Đây là vấn đề có liên quan đến văn hoá phiên toà trong cách xưng hô, nhưng chưa được hướng dẫn cụ thể.
Tuy nhiên qua thực tiễn xét xử, theo chúng tôi gọi bị cáo là đúng hơn cả vì nay BLHS quy định pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội phạm, vì vậy cần thống nhất cách xưng hô chung là bị cáo. Xưng hô như vậy vừa đúng với tư cách bị cáo vừa bảo đảm tính thống nhất trong phiên toà, lại vừa có văn hoá. Ví dụ: Chủ toạ phiên toà hỏi: “bị cáo Nguyễn Văn H khai cho Hội đồng xét xử biết ngày 1-2-2020 bị cáo làm gì ở đâu ?” hoặc “bị cáo có đưa tiền cho ông Trần Quang K không ?”
Tuy nhiên, nếu bị cáo là pháp nhân thương mại nếu bị truy tố ra tòa, thì việc xưng hô như thế nào cũng cần có hướng dẫn. Ví dụ: Công ty trách nhiệm hữu hạn X bị truy tố về tội buôn lậu. Vậy ai là người đại diện cho Công ty X ra tòa với tư cách là bị cáo? Theo điều lệ Công ty thì người đại diện pháp luật phải là Giám đốc, Tổng giám đốc nhưng Công ty lại ủy quyền cho một người không phải là đại diện pháp luật ra tòa, thì Tòa án có chấp nhận không?
Và nếu pháp nhân thương mại ra tòa với tư cách là bị cáo thì việc xưng hô như thế nào ? Chỉ gọi là “bị cáo” hay phải kèm theo vị ngữ “đại diện cho Công ty X hay chỉ gọi là “Công ty X”. Nếu chỉ gọi là “bị cáo” thì có thể nhầm với cá nhân, còn nếu chỉ gọi là “công ty X” thì lại dễ nhầm với vụ án kinh doanh thương mại.
Có thể còn ý kiến khác nhau về cách xưng hô đối với bị cáo là pháp nhân thương mại, nhưng theo chúng tôi nên thống nhất gọi là “bị cáo đại diện cho Công ty X…” Đây là vấn đề mới, lại chưa có thực tiễn xét xử nên Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn.
Việc xét hỏi bị cáo tại phiên toà sao cho bảo đảm dân chủ, khách quan, công minh, theo đúng tinh thần cải cách là một vấn đề đòi hỏi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải có kinh nghiệm, kỹ năng. Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều Hội đồng xét xử khi xét hỏi bị cáo đã định kiến sẵn hoặc theo hướng buộc tội hoặc theo hướng gỡ tội, thông qua việc xét hỏi những người dự phiên toà biết trước Hội đồng xét xử sẽ ra bản án như thế nào đối với bị cáo.
Khoa học pháp lý coi việc xét hỏi tại phiên toà là một nghệ thuật, đòi hỏi các thành viên trong Hội đồng xét xử, nhất là chủ tọa phiên tòa phải khách quan, không thành kiến hoặc định kiến trước, không quy chụp (hoặc đặt câu hỏi theo kiểu bức cung hoặc mớm cung); không giải thích về hành vi của bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, các tình tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo; không làm cho bị cáo hoặc những người tham gia phiên toà biết được ý định của chủ tọa phiên tòa khi chưa tuyên án.
Thực tiễn xét xử cho thấy do thói quen, nhiều Thẩm phán chủ yếu muốn sao để cho bị cáo “khuất phục” tại phiên toà, làm thay việc của Kiểm sát viên, chỉ tìm các chứng cứ buộc tội bị cáo nếu sẵn có định kiến là bị cáo có tội hoặc làm thay việc của Luật sư, chỉ tìm những chứng cứ gỡ tội nếu sẵn có định kiến là bị cáo không có tội.
Việc xét hỏi nói chung và xét hỏi bị cáo tại phiên toà nói riêng cũng là vấn đề không chỉ có liên quan đến văn hoá phiên toà (văn hoá xét xử) mà nó còn là vấn đề về lý luận và thực tiễn đang có nhiều ý kiến đề nghị cần xem xét lại thủ tục xét hỏi tại phiên toà làm sao vai trò của Hội đồng xét xử chỉ là người điều khiển phiên toà
Hướng dẫn cho những người tham gia tố tụng khai báo tại phiên toà, điều khiển việc tranh luận giữa một bên là Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan đến vụ án với một bên là bị cáo, người bào chữa, bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Phaplynhanh.vn đang hỗ trợ cho người dân, doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp cả nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật sư Hình sự, Luật sư Hôn nhân Gia đình, Luật sư Dân sự, Luật sư Doanh Nghiệp, Luật sư Đất đai… tư vấn ly hôn nhanh, tư vấn luật thừa kế,… liên hệ với chúng tôi qua thông tin tại Website, Hotline: 0907520537 hoặc Fanpage: Pháp lý nhanh.VN


THÔNG TIN VỀ CHÚNG TÔI:
Trụ sở chính: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON25 Đồng Xoài, phường Tân Bình, TP Hồ Chí Minh.Chi nhánh Bình Dương: CÔNG TY LUẬT TNHH ADB SAIGON – CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG569 Đại lộ Bình Dương, phường Thủ Dầu Một, TP Hồ Chí Minh.Điện thoại: 0377.377.877 – 0907.520.537 (Zalo)– 0855.017.017 (Hôn nhân) - 0907 520 537 (Tố tụng)Website: adbsaigon.com; Email: info@adbsaigon.com